những dòng lấp lánh trôi... Đi...i

1 thg 6, 2012

Tấm gương phụ nữ giữ thân son


Nguyễn Cao quê xã Cách Bi, huyện Quế Dương (nay là huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh). Sau này, ông làm quan tới chức Tán tương, nên dân gian thường gọi ông là ông Tán Cách Bi. Cha ông từng đậu Cử nhân, làm Tri huyện, rồi tạ thế. Bà mẹ khi ấy mới 20 tuổi, nhan sắc mặn mà, đức hạnh nết na. Nhiều bậc thức giả mến mộ con người ngoan, muốn xin rước về làm hiền nội, bà đều điềm đạm chối từ, tần tảo nuôi con nhỏ. Sách xưa chép, tên bà là Nguyễn Thị Điềm.

Vậy mà những kẻ hào lại quyền thế trong làng không chịu buông tha. Mê mẩn nhan sắc, lúc nào cũng có tên ve vãn, tán tỉnh quanh bà. Khi thì cho nộp chậm thuế ruộng, thuế vải, lúc lại tranh được nộp hộ, nộp đỡ; khi khác thì bày việc ra để xin làm giúp. Bà Điềm không nộp chậm thuế, không chịu mang nợ ai, không nhờ ai làm việc này việc kia. Sấn sổ hơn, có tên nói thẳng, muốn bà về làm vợ hắn. Bà nhẹ nhàng:
- Cám ơn ông! Nếu đi bước nữa, thì còn ai ngoài ông nữa. Nhưng kỳ tang còn dở, gái đoan trinh đâu có thất tiết sớm thế bao giờ. Mà con người đã vậy, thì ông đâu có thèm để mắt, phải không?
Ngỡ là nói khéo để chúng bớt quấy phiền nhưng biết đâu, thân gái một mình khó giữ. Hôm ấy, bà đi chợ sớm, kẻ kia phục trước, xông ra như hổ dữ vồ mồi. Bà gắng hết sức chống trả. Bàn tay nhơ nhuốc của kẻ kia vẫn chạm vào ngực bà. Dồn sức bình sinh, bà vùng lên chạy thoát.
Đầu tóc rũ rượi, ánh mắt cuồng giận, bà lao về nhà, chợt sững bước bên giường con trẻ. Nguyễn Cao còn nhỏ quá. Bà thẫn thờ ngồi xuống, nuốt nghẹn.
Họ hàng làng xóm không hiểu vì sao cô Điềm tự dưng sắp dọn đồ đạc, gửi gắm hết nhà cửa ruộng vườn, quày quả ra đi. Lâu lâu sau, có người đi xa về kể, mẹ con Nguyễn Cao bế bồng nhau lên chùa Kim Giang ở nhờ, cùng vị sư nữ hiền lành.
Bảy tám năm sau, hai mẹ con đưa nhau về quê cũ. Nguyễn Cao đã chín mười tuổi, khôi ngô, ham học. Người mẹ vẫn đẹp, lặng lẽ và cứng rắn. Họ hàng trao lại cho hai mẹ con nhà cửa, đất đai và số tiền hoa lợi mấy năm bà vắng nhà. Bà Điềm lập tức nhờ chị em sắm sửa mấy mâm cơm, nói là để tế cáo ông bà tổ tiênh. Kẻ hào lại xưa biết tin mò ngay đến, bà bình tĩnh mời:
- Lát nữa mời ông lại, cùng nhà tôi nói với tổ tiên vài lời.
Kẻ kia mừng lắm.
Nguyễn Cao tuy còn nhỏ, nhưng đã cảm thấy mẹ mình có điều gì khang khác. Cơm rượu tinh tươm, nhang khói tế tổ nghiêm trang. Bà Điềm ôm chặt con trai, rồi đứng vụt lên, cất giọng:
- Thưa các bậc tôn trưởng, cùng họ tộc, xóm giềng. Phận nữ nhi chẳng may sớm góa chồng, những mong một dạ nuôI con nên nghiệp lớn. Chỉ trách kẻ ô trọc ham hoa mê liễu, chẳng kể tiết ngọc giá trong, giữa trời cao đất dày, toan giở thói dâm ô, làm nhục người vợ góa. Nó chính là kẻ này đó.
Bà chỉ thẳng vào kẻ háo sắc. Y sạm mặt. Bà con xôn xao. Bà Điềm tiếp lời:
- Phận gái góa quyết một dạ với chồng, tiếc là thế cô, đành chịu một phần nhơ nhuốc. Nay ta trả lại người sự nhơ nhuốc đó, còn tấm lòng trinh trắng, xin với tộc họ, xóm giềng được theo gót phu quân.
Rồi bà rút dao sắc, cắt ngay ngực mình ném trả kẻ kia và chết ngay. Nguyễn Cao mở tròn đôi mắt, khắc ghi.
Họ hàng làng xóm cảm phục người vợ tiết tháo, vô cùng khinh bỉ kẻ ô trọc. Mọi người xúm lại, trói y lại giải lên quan kêu kiện. Cả một vùng Kinh Bắc truyền nhau câu chuyện, người vợ hiền từ thủ tiết giữ thân son.
Nguyễn Cao từ ấy mồ côi mẹ, được cô gì chú bác chăm nom. Năm Đinh Mão (1867) đời vua Tự Đức, khoa thi Hương trường Hà Nội, Nguyễn Cao đậu Giải nguyên (đỗ đầu). Sách cũ còn ghi, ông làm quan trải các chức Tri phủ, Tán tương quân, Bố chánh Thái Nguyên.
Khi giặc Pháp đánh chiếm Bắc Kỳ (1883), không thể chịu được cảnh triều đình khuất phục người Pháp xâm lược, ông từ quan về quê. Tiếng là làm người nhàn tản, không để ý việc đời, thực chất Nguyễn Cao liên lạc với những người cùng chí hướng, bàn kế khởi binh đánh Pháp. Sau thất cơ, Nguyễn Cao bị chúng bắt được. Ấy là vào tháng 4 năm Đinh Hợi (1887). Nguyễn Cao cắn lưỡi mà không chết. Ông bèn dùng móng tay rạch bụng, lôi ruột gan bày trước mặt quân thù. Con ông là Nguyễn Hào khởi nghĩa, cũng bị giặc sát hại. Bà vợ Nguyễn Cao cũng tuẫn tiết cùng chồng con.
Người đời sau có thơ khóc rằng:
Thề cùng trời đất phơi lòng trắng
Nghiến giận giang sơn múa lưỡi hồng.
Đúng là hổ mẫu sinh hổ tử !
Bà mẹ của người anh hùng dân tộc Nguyễn Cao xứng đáng là một tấm gương sáng về phẩm giá của phụ nữ Việt Nam!
(văn hiến )

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét