những dòng lấp lánh trôi... Đi...i

20 thg 9, 2011

Luật bù trừ

tản văn của Nguyễn Kiên

Nhà văn Nguyễn Kiên


Về già chú Phấn trở nên ù lỳ, yên phận còn vợ chú thì trái lại, sinh ra đáo để tai quái nhưng chỉ với riêng chú mà thôi. Vợ chú cứ khơi khơi rỉa rói chú: “Đời ông là cái đời vứt đi!”. Chú ngơ ngơ, cái nhìn trống rỗng, vẻ như không hay biết gì.

Chú Phấn là rể họ ngoại về đằng bà ngoại tôi, lại ở khác tổng, khác làng nhưng thuở trẻ chú có nét khác người nên tôi thích gần chú. Chú tài học lỏm, bất kể việc gì chỉ cần nghe qua, nhìn qua coi như cũng biết, cũng làm được. Chẳng hạn, chú chỉ đi chơi la cà mấy nhà, vừa gẫu chuyện vừa ngắm nghía những bức tranh khảm trên cánh cửa tủ chè là chú nhớ nhập tâm cải hình vẽ lẫn tích chuyện. Về nhà, chú vẽ lại trên tường, nét mực nho trên nền vôi trắng, khéo léo một cách ngô nghê, bọn trẻ con chúng tôi rất thích. Những Văn Vương cầu hiền, Đào viên kết nghĩa, Tam cố thảo lư… và gì gì nữa tôi không nhớ xuể. Có một bức tranh do chú Phấn tự ý vẽ ra, nguệch ngoạc một khóm trúc, một mái tranh tềnh toàng với một ông râu dài, trần như nhộng, nằm ngủ trên nền đất. Chủ Phấn giảng: :”Đó là ông Lưu Linh, uống rượu như thần, say thì cởi bỏ quần áo, nằm lăn ra ngủ như đứa trẻ sơ sinh. Có người cười ông. Ông Lưu Linh bảo, ta lấy trời làm nhà, lấy nhà làm làm quần áo, người phàm không hiểu được ta!” Rồi chú khoát tay: “Lũ chúng ta đều là người phàm tuốt!” - giọng chú vẻ như buồn, lại như vui vì được làm người phàm.
Chú Phấn sẵn có tài vặt, đâm ra lông bông, việc nhà chú phó thác tất cho vợ phải gánh vác, lo toan. Một năm chú theo lò vật đi thi đấu khắp nơi. Lên đến Ba Vì, chú gặp một cô gái ở bến Đá Chông. Cô này theo các bà lang Mán lên núi hái thuốc nam, tất nhiên cô chỉ biết được những cây thuốc thông thường nhưng cô cũng mặc quần áo Mán, nói giọng Kinh lơ lớ, đem thuốc đi bán dạo ở các chợ quê. Cô bị một cái nhọt bọc sau lưng, gọi là nhọt hậu bối, cái nhọt hành hạ cô mà cô thì không biết cầu cứu ai, không biết chữa bằng cách nào. Chú Phấn nhớ đến ông lang Điền, liền quay về lấy thuốc cao của ông lang. Nhờ mấy lá cao tan, cái nhọt hậu bối của cô gái vỡ ra, dán tiếp thêm mấy lá cao hút mủ là sạch nhọt. Chú Phấn sống với cô Đá Chông, già nhân ngãi non vợ chồng, cô đá Chông le te chạy chợ nuôi chú, chú ngồi không mãi cũng chán, liền mở cửa hàng vẽ tranh sơn thuỷ và vẽ truyền thần. Thỉnh thoảng mới có người động rồ mua tranh sơn thuỷ tô màu loè loẹt, đường nét ngô nghê của chú. Còn truyền thần, chú vẽ phóng to theo ảnh nhưng đâu có giống, được cái chú khéo tán nên khách đặt hàng cũng xuôi tai.
Chú Phấn ở miết với cô Đá Chông nhưng giỗ tết chú vẫn nhớ và vẫn về quê nhà. Vợ chú giận, không thèm hỏi han, chẳng hiểu chú làm cách nào, trước khi chú đi vợ chú lại tươi hơn hớn. Sợi dây ràng buộc vợ chồng chú thím là đàn con nít, cứ đều đều ba năm đôi mà toàn con gái, đến đứa thứ bảy mới ngừng.
Tôi đi kháng chiến, đến khi trở về được biết chú Phấn có thời gian lang bạt xuống Phủ Đình, theo đám lái buôn thuốc Tây từ vùng tề ra vùng tự do. Một đêm vượt sông Đáy, quãng gần Bến Đục, bị Tây phục kích bắn chìm đò, hàng hoá mất hết, may chú dạt được vào bãi ngô. Chú thất thểu tìm về nhà trọ. Cô chủ nhà trọ giữ chú lại. Nhưng chú vừa hút chết, lại trắng tay nên chán nản, nhất định tìm về quê. Gần đây chú Phấn gặp lại người cũ, đã là bà nạ dòng nhưng còn xuân sắc, bà này không biết bị chồng bỏ hay bỏ chồng, bà ta bươn chải ngoài bến ông để nuôi chú, còn chú từng đi bán thuốc tây, biết một số mặt thuốc, tự phong cho mình là y sĩ, đi tiêm thuốc và bán thuốc rong trong vùng. Một lần tôi lên Trung Hà thăm chú. Nhà chú vốn là cái điếm canh đê cũ nát được sửa sang lại và nối dài thêm mấy gian, gian lợp ngói tây, gian lợp giấy dầu, tất cả dài thượt như cái ống. Đêm nằm trên chiếc giường dẻ quạt cùng chú Phấn, quanh nhà tiếng ếch nhái kêu râm ran, dưới gầm giường tiếng côn trùng rỉ rả không ngớt. Tôi hỏi thăm công việc của chú, chú trở mình và nói:
- Ôi dào, bà ấy kiếm là chính chứ tôi thì ăn thua gì. Loanh quanh mấy viên thuốc chữa nhức đầu, cảm cúm, đau bụng, đi ỉa chảy với mấy ông thuốc tiêm trợ sức, vitamin... Nhưng bà con ngoài bãi, trong đồng đều gọi tôi là y sĩ, gọi luôn bà ấy là bà y sĩ. Nhờ thế, việc làm ăn của bà ấy dễ thông đồng bén giọt. Cũng hay!
Tôi hỏi lại chú, chú có ý định bám trụ ở đây lâu dài không, chú trả lời tưng tửng:
- Tôi chẳng có ý định gì sất. Bám hay buông là do sự đời đưa đẩy, mình bận tâm cũng đến thế. Thôi mặc, tôin côi nó nhẹ tênh!
Nghĩa là đời chú Phấn vẫn lang bạt kỳ hồ. Gần đây chú về ở Trạm Trôi, ngay phố huyện nhà. Nghe nói trước đây có một bà buôn chuyến, goá chồng, thường qua lại bến Trung Hà, một đêm mưa bị cảm được chú Phấn tiêm cho mấy mũi. Bây giờ bà goá Trạm Trôi ngồi sạp hàng ở ngay chợ huyện. Chú Phấn sa vào cảnh cơm no bò cưỡi sướng rơn, chỉ có điều chú sắp về già, sức vóc chẳng còn mấy nả. Trạm Trôi gần nơi đô hội, chú không thể hành nghề vẽ tranh dởm và y sĩ dởm. Nhưng rồi cũng có cách: Chú xoay sang nghề kẻ biển và trang trí phông màn đám cưới. Đám cưới nhà quê, chỉ cần chữ song hỷ bằng giấy trang kim lấp lánh và hai chữ đầu tên cô dâu chú rể lồng nhau sao cho đúng cách, còn những thứ khác tha hồ tuỳ hứng. Nhà đám vui vẻ, chè thuốc sẵn, rượu uống tràn cung mây...
Tôi không rõ những cuộc giăng gió của chú Phấn trước đây kết thúc thế nào. Riêng cái kết thúc ở Trạm Trôi thì cười ra nước mắt. Bà goá Trạm Trôi có gã con trai can tội gây ẩu đả, đâm chén nhau ngoài bến xe, phải đi tù. Ra tù, gã đột ngột xuất hiện trước cửa nhà, mặt đỏ gay, hất hàm hỏi chú Phấn: "Ông là ai?" Rồi gã phẩy tay: "thôi, ông không cần trả lời. Tuy ở trong tù nhưng tôi biết hết. Tôi chỉ cần nói thế, chắc ông biết cách tự xử thế nào cho yên!" Chú Phấn nấn ná, định chờ bà goá ở ngoài chợ về, tình thế không cứu vãn được thì cũng có lời từ biệt nhau. Gã con trai cười gằn: "Không việc gì phải lằng nhằng thế. Mình tôi nói chuyện với mẹ tôi là đủ. Ông biến ngay đi cho tôi nhờ!".
Chú Phấn trở về nhà ở quê. Lần này thì về hẳn. Chú già đi trông thấy, râu ria tua tủa, lưng lòng khòng, cái nhìn trống rỗng. Thỉnh thoảng tôi có dịp đến thăm chú, lần nào cũng thấy chú ngồi ở đầu hiên, tay cầm cái ào dài, chú vừa nói chuyện vừa đập đập đầu sào xuống mặt sân để đuổi gà, dù sân có gà hay khôing có. Bẩy người con gái đều đã đi lấy chồng. Nhà chỉ còn hai vợ chồng già. Chú Phấn nín lặng, mặc cho vợ chú la hét. Rồi chú nói với tôi, giọng ngậm ngùi: "Đối với bà ấy thì đời tôi là đời vứt đi thật. Thôi cứ để bà ấy la hét cho hả. Âu cũng là luật bù trừ?".
 (nguồn:Văn VN.net)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét